Thứ Sáu, 26 tháng 10, 2012

ĐỌC VUI VÀI PHÚT CUỐI TUẦN ( 1 )

ĐỌC VUI VÀI PHÚT CUỐI TUẦN ( 1 )


*
Những chuyện cao ngạo cua Tô Đông Pha

* Đôi lời cảm tạ: Gặp lúc chưa kịp viết xong bài mới, người làm trang Sổ Tay Văn Nghệ tìm đọc ra một bài viết của tác giả TÂM BÌNH, đăng tải trên tạp chí DÂN VĂN, số 68, ấn bản tại Âu châu. Trang Sổ Tay Văn Nghệ xin hân hạnh gởi đến bạn gần xa bài viết rất kỹ lưỡng và hấp dẫn của tác giả TÂM BÌNH.

Thành thật cảm tạ tác giả TÂM BÌNH và cảm tạ nguyệt san DÂN VĂN (Nguyệt san Thời sự Chính trị Văn hóa ) tại Âu châu.



Nhân đây trang Sổ Tay Văn Nghệ xin cảm tạ nhiều tác giả đã có thơ, văn, biên khảo.. đăng tải trên Sổ Tay Văn Nghệ; Rất mong các tác giả lượng thứ những thiếu sót hoặc nhầm lẫn khi ‘gõ’ sai vài chữ lúc bài vở lên trang..

CHÚC BẠN GẦN XA ĐỌC VUI VÀI PHÚT CUỐI TUẦN !

TRANG SỔ TAY VĂN NGHỆ

*


Đời Đường (618-905) đến đời Tống (960-1276) vào khoảng 7 thế kỷ, Trung Hoa có 8 văn hào lớn nhất (Bát đại gia).

Đời Đường có hai người là Hàn Dũ (768-724) và Liễu Tông Nguyên (773-819), đời Tống có đến 6 người: Âu Dương Tu (1007-1072), Tăng Củng (1019-1083, Vương An Thạch (1021-1086), còn 3 người là trong gia đình họ Tô (tam Tô).

Tô Tuân sinh ra Tô Thức (1037-1101) tự Tử Chiêm hiệu Đông Pha và Tô Triệt (1039-1112) tự Tử Do em Tô Đông Pha. Ông còn sanh ra một con gái tức Tô Tiểu Muội cũng rất giỏi văn thơ nhưng sách vở ít nói tới.

Tô Đông Pha sanh năm 1037 hơn người em là Tô Triệt 2 tuổi. Hồi Tô Đông Pha 9 tuổi thì thân phụ là Tô Tuân mới vô kinh thi Tiến sĩ. Số phận hẩm hiu nên khoa đó ông bị rớt. Ông bèn ca bài: Ta buồn ta đi lang thang chẳng biết về đâu. Ông không về nhà và đi ngao du khắp nơi trong nước trong hai năm.

Trong khi thân phụ đi lang thang thì Tô Đông Pha được thân mẫu là người đảm đang có học đích thân dạy dỗ nên trong vòng có hai năm Tô Đông Pha đã đọc thông sách vở và bắt đầu làm thơ văn cử nghiệp.

Tới năm 1057 Tô Đông Pha và Tô Triệt đền đỗ cao. Thiên hạ cho rằng bao nhiêu tinh hoa chung đúc vào gia đình họ Tô hết.

Có một giai thoại mà phần nhiều nhà văn nào cũng biết: một hôm Tô Đông Pha đọc bài thơ của Vương An Thạch tới hai câu:

Minh nguyệt sơn đầu khiếu



Hoàng khuyển ngọa hoa tâm

Tô Đông Pha thấy vô lý: trăng sáng làm sao hót ở đầu núi và chó vàng làm sao ngủ trong hoa. Ông bèn sửa chữ khiếu ra chữ chiếu còn chữ tâm ra chữ âm, và câu thơ được sửa như sau:

Minh nguyệt sơn đầu chiếu



Hoàng khuyển ngọa hoa âm



(Trăng sáng chiếu đầu núi



Chó vàng ngủ dưới bóng hoa)

Ông khoe với bạn bè là giỏi hơn Vương An Thạch và đã sửa được văn của ông này.

Vương An Thạch cũng đứng trong hàng Bát đại gia. Xin nói qua về thân thế ông này:

-Vương An Thạch sanh năm 1021, tự Giới Phủ, hiệu Bán Sơn. Ông nhỏ hơn thân phụ Tô Đông Pha 12 tuổi và lớn hơn Tô Đông Pha 16 tuổi. Ông là người đọc nhiều, hiểu rộng, rất mực thông minh. Sách nào đọc qua là nhớ ngay. Thiên hạ cho ông là kho sách sống. Ông là người du lịch nhiều, từng trải lắm, bản lãnh cao và có chí lớn. Ngoài văn chương, ông còn giỏi cả về chính trị lẫn kinh tế. Ông đỗ tiến sĩ năm 21 tuổi và làm Tể tướng năm 48 tuổi.

Đời Tống hồi đó từ vua Nhân Tông đến vua Thần Tông nước rất nghèo đói. Ngay cả vua cũng không dám ăn, mặc sang trọng để cùng chịu cực khổ với dân.

Để cứu nước, Vương An Thạch muốn dùng Tân Pháp để sửa đổi tận gốc từ chính trị, kinh tế, binh bị, học thuật v.v...

Hồi đó phe bảo thủ đều là sĩ phu liêm khiết chống đối Tân Pháp một cách kịch liệt dẫn đầu là Tư Mã Quang (1019-1086) và kéo theo Âu Dương Tu, Tăng Công Lượng cùng hai anh em họ Tô Tô Đông Pha và Tô Triệt, cùng một số các quan lại.

Có lẽ vì chống đối chính sách Tân Pháp nên Tô Đông Pha bị trích tới một miền phương nam khỉ ho cò gáy và rất có thể sự đày Tô Đông Pha tới chỗ đó cũng có dụng thâm ý vì chẳng bao lâu Tô Đông Pha khám phá tại chỗ có một loài chim gọi là Minh Nguyệt và một loài sâu gọi là Hoàng Khuyển.

Lúc này Tô Đông Pha mới nhận ra mình sửa bậy và kiến thức còn kém Vương An Thạch.

*

LỜI BÀN :

Xem như trên ta thấy sửa văn người khác là rất quan trọng. Các nước độc tài hay đảng trị đã bày ra ban kiểm duyệt để bôi xóa, cắt xén các bài văn đăng trên báo mà họ không vừa ý chẳng cần hỏi tác giả đồng ý hay không như các nước dân chủ đã làm. Lắm khi bài văn bị sửa đã làm sai lạc cả ý nghiã của tác giả.

Còn về văn chương thì nhà văn nào chẳng tự cho văn mình hay. Một triết gia cận đại Trung Hoa là Lâm Ngữ Đường- ông đã từng viết nhiều sách giá trị và đứng cùng hàng với Phùng Hữu Lan, Hồ Thích là những triết gia danh tiếng- đã nói một câu rất chí lý: văn mình, vợ người.

Có một số nhà văn, tôi nói một số thôi không phải hết, khi viết xong một bài văn, đọc đi đọc lại. Càng đọc lại thấy văn mình càng hay. Nếu tác giả cứ giữ những bài văn mình viết độ 2 hay 3 năm rồi mang ra đọc lại. Lúc này thấy nhiều bài khi đọc tự cảm thấy phảng phất hương thừa dường đã ra vào đâu đây. Đôi khi bịt mũi chạy không kịp. Thì ra có những bài để lâu lên men mới bốc mùi con thuyền Nghệ An ra.

Như vậy những bài mới viết xin đừng tự tin là quá hay vội. Độc giả có ý kiến trung thực nhất, nếu bị chê thì cũng đừng có vội giận.

Còn vợ người thì sao? Ở đời khi có mặt của một người hay một vật gì dù đẹp và tốt đến đâu, cứ mãi trước mắt mình sẽ tạo thành thói quen. Thói quen sẽ làm ta nhụt cả cảm giác của ta đối với người ấy hay vật ấy.

Lúc nào ta cũng thấy ở vợ người: đoan trang hơn, hiền hậu hơn (lẽ dĩ nhiên vì vợ người có bao giờ la mình đâu mà chẳng hiền hậu), đảm đang hơn, khéo léo hơn. Tóm lại tất cả đều tốt đẹp hơn vợ mình.

Xin kể đến câu chuyện thứ hai của Tô Đông Pha:

Thi hào Tô Đông Pha là bạn chí thân của thiền sư Pháp Diễn. Ông là một Phật tử thuần thành. Ngày ngày tới chùa tụng kinh niệm Phật với thiền sư. Chùa của thiền sư ở tả ngạn sông Dương Tử, còn Tô Đông Pha ở hữu ngạn cách nhau vài chục dặm. Tới thăm nhau đều phải dùng thuyền. Một hôm Tô Đông Pha tới thăm thiền sư trong lúc thiền sư đi khỏi. Chẳng có việc gì làm, thấy sẵn bút mực Tô Đông Pha bèn viết: Ta là một danh hào danh tiếng nhất đời Tống. Ta là một Phật tử thuần thành cho đến tám ngọn gió cũng không làm ta nhúc nhích được một gang tay. Viết xong bỏ đó đi về.

Thiền sư Pháp Diễn về đọc mấy câu đó mỉm cười và lấy bút ghi thêm dưới một câu: Tất cả lời khoe khoang trên đây chỉ bằng một cái trung tiện của ta; rồi thiền sư sai chú tiểu mang trả lại Tô Đông Pha.

Đọc xong thư của thiền sư, Tô Đông Pha giận quá lấy thuyền đi kiếm thiền sư và nắm áo hỏi:

-Ta có phải bạn thân của ngươi không?

Thiền sư đáp:

-Đúng.

-Ta có phải là một văn hào nổi danh đời Tống này không?

Thiền sư đáp:

-Đúng.

-Ta có phải là một Phật tử thuần thành, hàng ngày tới tụng kinh niệm Phật với ngươi không?

Thiền sư đáp:

-Đúng.

-Cái gì cũng đúng mà sao ngươi dùng lời thô bỉ để sỉ vả ta vậy?

Thiền sư nhẹ nhàng đáp:

-Nhưng có cái không đúng.

Tô Đông Pha càng giận thêm:

-Có cái gì không đúng nói ta nghe?

Thiền sư đáp:

-Ngươi tự cho mình là một Phật tử thuần thành và khoe tám ngọn gió cũng không làm ngươi nhúc nhích được gang tay, sao ta mới dáng một cái trung tiện mà ngươi đã bắn từ bên kia sông sang bên đây sông, xa đến vài chục dặm. Kỳ vậy hả? (bát phong suy bất động, nhất thi đả quá giang ).

(Viết theo Thiền truyện của Trương Trần Trí (Chang Chen Chi )

*

LỜI BÀN :

Đọc chuyện trên đủ biết là Tô Đông Pha cao ngạo, tự đắc về tài của mình và chưa thuộc chữ khiêm.

Quẻ KHIÊM   Quẻ thứ 15 trong Kinh DỊCH: nội quái là CẤN (sơn)   nằm dưới ngoại quái là KHÔN (địa)    . Khi bói được quẻ này thì rất tốt, mọi việc hanh thông. Tại sao vậy  vì núi cao mọc trong lòng đất thấp có nghiã là địa vị ta hơn người nhưng lúc nào ta cũng nhún nhường đứng dưới mọi người thì việc gì cũng hanh thông.

Nho gia Trình tử nhân đó bàn rằng: người lấy Khiêm Tốn xử sự thì đi đâu mà chẳng hanh thông. Khiêm tốn là cái đức cao của người cho nên thánh nhân hay nói kỹ để răn kẻ tự mãn, cao ngạo và khuyến khích kẻ nhún nhường.



Còn Hồ Khứu Trượng Nhân hỏi Tôn Thúc Ngao:

-Có ba điều chuốc oán và làm người ghét, ông biết chưa?

-Dạ chưa biết, xin ông chỉ dạy.

Hồ Khứu Trượng Nhân:

-Tước vị cao người ta ganh. Quyền thế lớn người ta ghét. Lợi lộc nhiều người ta oán.

Tôn Thúc Ngao trả lời:

-Không phải luôn như thế: - Tước vị càng cao tôi càng phải xử nhún nhường hơn. Quyền thế càng lớn tôi càng khiêm cung hơn. Lợi lộc nhiều tôi càng phải chia sớt cho người chung quanh.



Đức KHIÊM lên đến tầng nào thì kết quả tốt chừng ấy, mình tự hạ mình mà làm cho người phải tôn mình, mình tự dấu mình mà đức nghiệp tự nhiên rõ rệt. Hễ có đức KHIÊM thì trời làm tăng tốt thêm, đất giữ tốt lại cho, quỉ thần giúp thêm cho, và được mọi người yêu mến.

Đức KHIÊM trong Kinh Dịch không thái quá vì vẫn quí trọng đức trung. Đức KHI M trong Đạo Đức Kinh của Lão Tử có vẻ triệt để vì dứt khoát không tranh hơn thua với ai.

Thường tình người ta có tài thường hay khoe, có công thường hay lòe.

Chữ KHIÊM tuy rằng nó ngắn ngủi nhưng khó học vì cái hạnh của người đời nay, bao giờ cũng thích đánh trống thổi kèn chỉ nơm nớp lo sợ không ai biết cái tên nhỏ bé của mình nên khi họ có chút quyền hay chút danh thì họ tìm đủ cách nâng cao bản ngã của mình lên bằng sự kiêu ngạo, khoe khoang, kể công. Vì vậy đời mới có lắm sự đa đoan.

Họ không ý thức rằng khi quyền vào tay đó là thời. Khi thời tới ta phải khiêm cung đó là thuận. Khi đã an thời xử thuận thì việc gì mà chẳng xuôi chèo mát mái.

TÂM BÌNH

**********************


Không có nhận xét nào: