Thọ Xương hay Thọ Cương
Trong một buổi diễn thuyết cho Hội Pháp Quốc Đông Phương Ái Hữu ở Ba Lê ngày 2. 7. 1922, Phạm Thượng Chi giới thuyết Văn học Dân tộc Việt nam bằng câu hát bình dân:
“Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Thiên Mụ canh gà Thọ Xương”.
Về câu hát này, chúng tôi đã thắc mắc từ lâu: thắc mắc vì không rõ hình thức nguyên thủy của câu hát như thế nào; thắc mắc vì không rõ câu hát này đã bắt nguồn từ một bài thơ của Dương Khuê hay là Dương Khuê đã đem một phần câu hát vào trong bài thơ của mình.
Đây là bài thơ của Dương Khuê, nhan đề “Hà Nội tức cảnh”; trong cuốn “Dương Khuê” của Nguyễn Duy Diễn:
Hà Nội tức cảnh
Phất phơ cành trúc trăng tà,
Tiếng chuông Trấn-Võ, canh gà Thọ-Xương.
Mịt mù khói tỏa ngàn sương,
Dịp chày An-Thái, mặt gương Tây-Hồ.
I. CANH GÀ THỌ XƯƠNG
Trong câu hát cũng như trong bài thơ, có một địa danh được nhắc đi nhắc lại là Thọ-Xương. Vậy Thọ-Xương là nơi nào? Tại sao ở Hà Nội cũng có, mà ở Huế cũng có? Chúng tôi sẽ lầ lượt đưa ra mấy tài liệu chính xác có thể làm sáng tỏ vấn đề.
Về địa danh Thọ-Xương, chúng tôi đọc thấy địa danh này trong bài: “La pagode Lý-Quốc-Sư, traduit du texte viêtnamien de M. Trần-Hàm-Tân par Maurice Durand” trong tạp chí “Dân Việt Nam” (Le peuple Viêtnamien) số 3, xuất bản vào tháng 8. 1949, bài này khởi đầu bằng câu:
“Ở giữa thành phố Hà Nội, trong khu Nhà Thờ, đích là phường Tiên-Thị, thuộc Tổng Thuận-Mỹ, Huyện Thọ-Xương, Phủ Hoài-Đức, cựu tỉnh Hà Nội, có một ngôi đền, thờ vị Quốc Sư đời nhà Lý. Người ta truyền rằng ngôi đền này có từ đời ấy (1010-1225)”.
Chúng tôi cũng thấy ghi chép và chú gỉải rõ ràng địa danh Thọ-Xương trong quyển “Tỉnh Hà Nội”, chương Trí Kiên duyên cách (Dựng đặt đổi thay), trong bộ Đại Nam Nhất Thống Chí, như sau:
Huyện Thọ-Xương ở cách phủ Phụng Thiên 9 dặm, về phía Đông Nam; Đông Tây xa nhau 2 dặm. Nam Bắc xa nhau 9 dặm. Mặt Đông đến địa giới huyện Gia Lâm (thuộc tỉnh Bắc Ninh), đối ngạn với sông Nhị-Hà, là 1 dặm. Mặt Tây đến địa giới huyện Vĩnh-Thuận là 1 dặm.
Mặt Nam đến địa giới huyện Thanh-Trì (thuộc phủ Thường-Tín) là 6 dặm.
Mặt Bắc đến địa giới huyện Đông-Ngàn (thuộc tỉnh Bắc Ninh), đối ngạn với sông Nhị Hà, là 3 dặm. Về đời Hán là huyện Long Biên, đến đời Tống-Hiếu-Tôn (454-457) mới trích đặt ra huyện Tống-Bình. Sau đổi ra quận Tống-Bình. Đến thời nội thuộc nhà Minh (1414-1427) đổi là huyện Đông-Quan. Đến đời Quang Thuận (1460-1470) triều Lê Thánh Tôn, đổi lại là Vĩnh Xương. Sau cùng mới đổi là Thọ-Xương. Đến đời Gia Long triều Nguyễn, huyện này do phủ Hoài Đức kiêm lý. Đến năm Minh Mạng thứ 12 (1831), mới đặt chức Tri huyện, đổi làm thông hạt, lĩnh 8 tổng, có 115 thôn phòng.
Theo hai tài liệu trên, chúng ta thấy rằng Thọ-Xương ở Bắc Việt, vùng Thăng Long (Hà Nội). Huyện Thọ-Xương gồm từ khu vực Nhà Thờ Lớn Hà Nội ra tới Đồn Thủy. Như thế thì “tiếng chuông Thiên-Mụ” và “canh gà Thọ-Xương” khó mà đi đôi với nhau cho được. Vì lẽ đó, câu hát bình dân để cho hợp với phong cảnh Thăng Long nghìn năm văn vật; phải mang hình thức:
“Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Trấn-Vũ, canh gà Thọ-Xương”.
II. TIẾNG CHUÔNG TRẤN-VŨ
Trấn-Vũ đây là đền Trấn-Vũ, Tức Quán Trấn-Vũ, thờ Huyền-Thiên Trấn-Vũ. Đền này ở đầu đường Cổ-Ngư, cũng gọi là đền Quan-Thánh, Hà Nội. Nguyên trước, vị thần này là một đạo sĩ ở núi Vũ Đang và tên gọi là Chấn-Vũ, một vị Thái Tử của nước Tinh Lạc (một nước của tiên ở giữa biển, về phía tây nước Nguyệt-Chi, hoặc Nhị-Chi), thuộc Ân Độ, vào thời của Hoàng-Đế (2697-2596 trước Tây Lịch), bên Trung Hoa. Thần Chấn-Vũ sang nước Nam bày trừ những quỉ quái ở núi Vũ Đang thuộc làng Thuy Lôi, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh (Bắc Việt); cho nên người ta cũng có dựng đền thờ thần là đền đức Vũ-Đang Nguyên-Quân.
Sách “Lĩnh nam Trích-Quái” có chép rằng lúc đầu đời vua Thái-Tổ nhà Lý (1010), người ta có dựng một cái đền thờ ở gần Hồ Tây, để thần khư trừ các loại tinh cáo trắng chín đuôi phá hoại dân cư vùng này. Do đó, người ta ước đoán rằng quan Trấn-Vũ đã có từ thời nhà Lý, như có thấy ghi chép trong các bia xây dựng năm thứ 10 đời Tự-Đức (1857) và năm thứ 5 đời Thành-Thái (1893).
Theo Đại Nam Nhất Thống Chi, quyển “Tỉnh Hà-Nội”, mục Tự-quán, Quán này ở phường Thụy-Chương, huyện Vĩnh-Thuận. Thờ đức Trần-Thiên-Chân Vũ-Đế-Quân dựng từ niên hiệu Vĩnh-Trí đời Lê (1676-1680). Đến khoảng năm niên hiệu Chính-Hòa (1704) có sửa lại, và đúc tượng đồng cao 8 thước 2 tấc ta, cân nặng 6.600 cân, tay mặt thì chống gươm trên lưng con rùa, có con rắn quấn chung quanh. Thần rất linh thiêng. Ông Trạng-Nguyên Đặng-Công-Chất có soạn bài văn khắc vào bia. Đây trước nguyên là Trần-Võ-Quán, đến triều Nguyễn năm Minh Mạng thứ hai (1821) vua ngự du Bắc tuần có cúng vào đền 50 lạng bạc. Đến năm Minh Mạng 21 (1840) mới đổi là Trấn-Võ-Quán và sai quan đến tế, lại để cúng một áo tơ lông vàng. Đến năm Thiệu-Trị thứ hai (1842), vua lại ngự giá tuần hành ra chơi, có cúng một đồng tiền vàng và một áo lông tơ vàng, lại cấp cho một biển đồng khắc bài thơ ngự chế và cúng một đôi câu đối vóc. Xét ở Việt-sử thời vua An-Dương-Vương nước Thục, thì có con tinh gà trắng và phục quỷ cứ thường lui tới ở núi Thất Diệu-Sơn Thần mới hiển thánh ở núi Xuân-Lôi thuộc tỉnh Bắc Ninh trừ được hết những quái đảng ấy. Vua mới lập miếu ở cửa Bắc Đô-Thành để thờ, phía sau quán có đền thờ đức Văn-Xương đế quan.
Quán Trấn-Vũ đã được xếp hạng cố tích do Nghị Định ngày 16. 5. 1925 và được giao cho Viễn-Đông Bác-Cổ Học-Viện trông coi. Năm 1941, Viện này có cho đặt hai con voi ở cửa đi vào (*).
Trở về câu hát bình dân nói trên, chúng ta rời xứ Bắc vào miền trung, viếng thăm chùa Thiên-Mụ.
Chùa Thiên-Mụ là cổ tích có lẽ xưa nhất của người Việt tại miền Thuận Hóa. Đại-Nam Nhất-Thống- Chí chép rằng năm Tân-Sửu (1601), Thái tử Gia-Dụ Hoàng-Đế, tức Nguyễn-Hoàng, ngự hành đến xã Hà-Khê, thấy có gò bằng đột-khởi, hình như đầu rồng ngó lại, trước có trường giang, sau có bình hổ, cảnh trí giai-thắng, nhân đó vua hỏi người ở đây, họ bảo rằng: “Gò này rất linh dị, tương truyền khi xưa có người ban đêm trông thấy một bà già mặc áo dỏ quần xanh, ngồi trên gò ấy nói: “Đáng lẽ có ông chân-chủ đến làm chùa chỗ này cho tụ linh khí để củng cố long mạch”. Nói xong, bà biến đi mất, nhân đó mới gọi là núi Thiên-Mụ. Vua nhận cho chỗ ấy có linh khí, bèn dựng chùa đặt tên là chùa Thiên-Mụ. Đời Hiền-Vương Nguyễn-Phúc-Tần, năm 1665, có trùng tu chùa. Đời Quốc-Chúa Hiếu-Minh Nguyễn-Phúc-Chu, năm 1710, có đúc chuông lớn, năm 1715 có chế bi-văn khắc vào đá dựng nơi bên sông.
Theo “Ô-Châu Cận-Lục” của Dương-Văn-An, chùa này ở phía Nam xã Hà-Khê, huyện Hương-Trà, ở trên đỉnh núi, dưới gối dòng sông, ngoài ba nghìn thế giới, xa nơi trần tục, trong gang tấc mà gần chốn thiên trì, khách tản bộ đến nơi du ngoạn, tự nhiên phát thiên tâm, tiêu tục lự, ấy là cảnh trí Phương-Trượng vậy.
Từ bên chùa Thiên-Mụ nhìn sang bên kia sông Hương là gò Long-Thọ.
Gò Long-Thọ, ở xã Nguyệt-Biểu, huyện Hương-Thủy, gò dựa bờ phía Nam sông Hương, đối diện với gò Thiên-Mụ. Tên cũ là Thọ-Khang Thượng-Khố. Danh từ Thọ-Khang cũng có thể đọc trại là Thọ-Khương; vì thế mà câu ca bình dân nói trên cũng có khi mang hình thức như sau:
Gió đưa cành trúc la-đà,
Tiếng chuông Thiên-Mụ, canh gà Thọ-Khương.
Tương truyền trên gò này xưa kia có nhà cửa, và người ta đã từng đem tạm quàn ở đây, những quan tài của:
-Hiến-Tông Hiếu-Minh Nguyễn-Phúc-Chu (1691-1725);
-Túc-tông Hiếu-Ninh Nguyễn-Phúc-Trù (1725-1738) và
-Thế-Tông Hiếu-Võ Nguyễn-Phúc-Khoát (1738-1765)
cho nên cũng có người sửa đổi câu hát bình dân như sau:
Gió đưa cành trúc la-đà,
Tiếng chuông Thiên-Mụ, canh gà Thọ-Cương.
Xem như trên, chúng ta thấy có một câu hát bình dân có thể “di cư” từ Bắc chí Nam, xa xuôi ngàn dặm, và được tu chính tùy theo phong cảnh, thủy thổ, trạng huống và tâm sự của người đương thời.
Nói một cách khác, những câu hát bình dân cũng phát sinh, trưởng thành, di chuyển và biến hóa như những sinh vật. Những câu hát ấy cũng theo con người mà đi đây đi đó, khi thì qua khe lội suối, khi thì leo núi băng ngàn, từ Thăng Long tới Thuận Hóa, rồi lần theo bờ biển Nam Hải để cập bến Cửu Long Giang, cùng chia sẻ ngọt bùi với đoàn người phiêu lưu mạo hiểm.
Và một khi đến xứ Đồng Nai, câu hát bình dân kia hẳn phải biến hóa phần nào cho hợp với cảnh tình, thủy thổ, để mang lấy hình thức cuối cùng và mới mẻ của nó là:
Tiếng chuông Xá-Lợi, canh gà Thủ-Thiêm.
THÁI VĂN KIỂM
(*) Chúng ta không nên nhầm lẫn Đền Trấn-Vũ với Chùa Trấn-Quốc. Chùa này ở bán đảo gần giữa Hồ Tây, trước gọi là An-Quốc, xây trên bãi cát ở phía Bắc cầu Long-Biên bây giờ. Về sau bị lụt năm 1615, tức là năm thứ 16 đời Hoàng-Định nhà Lê (1600-1619), dân phường Yên-Phụ (sau sáp nhập hộ thứ nhất thành phố Hà Nội) mới dời vào dựng trên nền cũ đền Hàm-Nguyên của nhà Trần (trên bãi rùa phía Đông-Nam hồ). Đến đời Chính-Hòa (1680-1704), người ta đổi tên chùa làm Trấn-Quốc; tên này đến đời Thiệu-Trị, vào năm 1842, lại đổi làm Trấn-Bắc, hiện còn biển sơn thếp vàng ghi tên chùa của vua ban, như dân chúng vẫn thường quen gọi là chùa Trấn-Quốc.
**********************
* Vài nét về TÁC GIẢ:
THÁI VĂN KIỂM
Bút hiệu: Tân-Việt-Điểu, Bao-La Cư-Sĩ, Hương-Giang Tư-Mã; sinh tại phường Trung Hậu, hồ Tịnh Tâm, Huế; quê quán: Làng Bao La, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên, Việt Nam.
-Tiến sĩ Đông Phương Học, Paris, 1981
-Tiến sĩ Quốc Gia Văn Chương
-Chủ bút Văn Hóa nguyệt san; Chủ biên Văn hóa Tùng thư (1955-1962).
-Tác giả thiên phóng sự Thám hiểm động Phong-Nha, giải nhất, HàNội 1942.
-Tác giả các quyển: Cố-đô Huế (1960), Đất Việt Trời Nam (1961), Việt Nam nhân vật chí vựng biên (cùng Hồ Đắc Đoàn), Việt Nam Gấm Hoa (1996).
**********************
*Bài biên khảo Thọ Xương hay Thọ Cương của tác giả THÁI VĂN KIỂM, đã được đăng tải trên một tạp chí Việt ngữ có nhiều đọc giả tại Âu châu và tạp chí Văn Nghệ Ngày Nay số 2, ấn bản tại Thụy Điển, tháng 6 năm 2001 đã tuyển chọn đăng ..
*
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét