Thứ Sáu, 24 tháng 2, 2012

NẮNG MƯA MỘT THỜI ( 5 )


NẮNG MƯA MỘT THỜI ( 5 )

Rất nhiều người, dù chưa một lần đến Hải Phòng, nhưng đã từng nghe và biết đến hai câu: “Hải Phòng có bến Sáu Kho. Có sông Văn Úc, có Lò xi-măng.” Và đã có một văn nhân, đem hai hình ảnh có tính biểu tượng của thành phố Hải Cảng vào thơ: “Nhà máy xi-măng ngút trời khói tỏa. Bến Sáu Kho rộn rã còi tầu.”
Cách đây vài trăm năm, nhiều tầu thuyền của các thương gia Nhật Bản, Trung Hoa và vài nước phương Tây như Bồ Đào Nha, Pháp, Tây Ban Nha... thường theo đường thủy đến Hải Phòng buôn bán hoặc trao đổi hàng hóa. Từ vài thế kỷ trước, Hải Phòng đã là một bến cảng rất thuận tiện nằm trên đường hàng hải quốc tế. Còn bến Sáu Kho do người Pháp xây dựng, nơi có các cầu tầu và bến bãi rộng rãi. Từ bến Sáu Kho, có một đoạn đường sắt ngắn khoảng 2 km tới ga xe lửa chính và từ ga xe lửa này, hàng hóa tỏa đi khắp nơi, vì thế việc vận chuyển và lưu thông nguồn hàng xuất, nhập khẩu rất thuận lợi. Với vị thế đắc địa là một bến cảng lớn nhất miền Bắc, cách nay vài trăm năm, Hải Phòng là miền đất sống nhiều hứa hẹn tươi sáng, một nơi tìm đến để làm ăn sinh sống lâu dài của nhiều dân cư quanh vài vùng lân cận- những người dân lành, suốt một đời chăm chỉ làm lụng... Trong đám đông dân lành tìm đến Hải Phòng để an cư lập nghiệp hồi đầu vài thập niên của thế kỷ 20 (khoảng chừng trong các thập niên 1920-1940), có bố mẹ và vài người họ hàng, thân hữu với gia đình chúng tôi. Theo lời kể lại của các cụ đã sống thời ấy, vào giai đoạn những năm đầu thế kỷ 20, khi vùng đất miền cửa biển này mới có nhà máy xi-măng, mới có bến cảng Sáu Kho thì dân tứ xứ mười phương đã tìm đến vùng đất Hải Phòng. Bố mẹ chúng tôi, đôi lúc kể lại, hai ông bà đến Hải Phòng từ hồi mới qua tuổi thiếu niên, ở lứa tuổi mười lăm, mười sáu; cả hai đều sinh trưởng nơi vùng thôn dã và tìm đến thành phố Hải Phòng lập nghiệp với hai bàn tay trắng...


*


Có thể nói, phần đông dân cư sống tại Hải Phòng ngày nay, gốc gác (nguyên quán) là từ các tỉnh, thành lân cận như Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình. Thỉnh thoảng cũng nghe nói có gia đình đến từ vùng biển Quảng Ninh, đến từ vùng châu thổ sông Hồng (khu vực được nước sông và phù sa đắp đổi nên thành miền đất trù phú, phì nhiêu), hoặc đến từ vùng trung du Bắc Bộ. Hai tỉnh là Hải Dương và Hưng Yên gần Hải Phòng, nên dân Hải Phòng có nguồn gốc Hải-Hưng cũng đông (trước đây có thời hai tỉnh đã hợp lại thành một tỉnh mang tên Hải Hưng). Nhưng số dân đến Hải Phòng lập nghiệp nhiều nhất có lẽ là dân đến từ Nam Định và Thái Bình. Người dân Nam Định từ xưa nổi tiếng có tay nghề thủ công đứng vào hàng nhất, khéo tay và sáng tạo nhiều đồ mỹ nghệ về vàng, bạc...; nên các tay thợ lành nghề Thành Nam dễ dàng đem hiểu biết và kinh nghiệm nghề sống tốt với Hải Phòng, lúc đó mới chỉ là thanh phố công nghiệp non trẻ. Còn dân Thái Bình, được tiếng tốt cần cù, chăm chỉ và rất chịu khó từng sống trên một vùng đất luá, nơi lừng tiếng là vựa thóc của Bắc Bộ; vùng đất yên bình từ ngàn xưa (Thái Bình), nơi ít khi xẩy ra chiến tranh tàn khốc. Người dân Thái Bình, nguyên gốc, thường tự hào với bản tính hiền hòa, hay lam hay làm và thân thiện của họ. Dẫu trong cảnh ngộ nào, họ vẫn tin tưởng những tốt lành sẽ đến (sau cơn mưa bão, trời đất sẽ lại yên lành). Họ thường sống với tâm hồn thơ thới hân hoan, luôn lạc quan yêu đời (... mà cuộc đời, như có người đã biết “có bao lâu, mà hững hờ...”. Có đúng không nhỉ?). Thành thử, hãy tự mình tìm nguồn an ủi hay tìm một niềm vui, dù ít ỏi trong tâm hồn, để sống tiếp. Cái ánh sáng trí tuệ này, hiểu theo chất triết học một câu khuyên nhủ của dân Tây, đại khái: “Thà thắp sáng lên một ngọn đèn, còn hơn ngồi nguyền rủa bóng tối.” Thật lòng, tôi ưa thích những người, dẫu trong nguy nan và ngay cả trong khi “chưa nhìn thấy ánh sáng nào le lói cuối đường hầm”, họ vẫn giữ được trong ý tưởng những hy vọng tốt lành.
Người dân Hải Phòng qua nhiều năm như tôi biết, họ mang trong người một thể chất (có người gọi là “phong cách”, “khí chất đậm đặc”) phong phú đặc biệt, gom góp nhiều nét dân dã truyền tiếp từ thế hệ trước, chẳng hạn như dân gốc gác Hải Dương thường thích làm các loại bánh đậu xanh, bánh gai... vài thứ bánh đặc sản nổi tiếng đất Bắc, và họ ưa thích phát triển buôn bán để kiếm sống. Dân gốc gác Hưng Yên, nơi có vùng đất trồng loại cây ra quả nhãn lồng ngon và có giá trị, thường thích chăm nom vườn tược và yêu cảnh thiên nhiên.
Những hợp chất tốt đẹp về vật chất, trộn lẫn tinh thần (thơ, phú... của dân các vùng ‘đem đến’ đất Cảng), thêm nữa, khí hậu Hải Phòng ảnh hưởng tốt đến người dân Hải Cảng, giúp tinh thần họ thêm phóng khoáng, rộng mở, hiền hòa “như gió biển”. Và đặc biệt hấp dẫn hơn nhiều, trong những câu chuyện thường ngày của người dân Hải Phòng, bạn phải là người tinh ý và hiểu đời đến một mức nào đó, bạn mới hiểu cách nói vui nhộn và pha chút hóm hỉnh của họ (những ’mắm, muối, chanh, ớt’, ‘gia vị’ của đời sống). Cách nói ý nhị pha chút vui vui hình như từ lâu đã có ở trong tâm huyết của dân đất Cảng, và mặc nhiên là thế hệ sau họ diễn tả giọng điệu có nét vẻ hài y chang thế hệ trước ! Còn dân đã sống nhiểu năm trên mảnh đất Hải Phòng thì sao? Khi chợt nghe một câu chuyện vui, hay rất ‘tếu’ của bạn, dân Hải Phòng chỉ cười mủm mỉm.
Bạn có thể không tin vài dòng tùy bút tản mạn trên, nhưng sẽ có ngày bạn mỉm cười với những chuyện văn nghệ tôi kể lướt qua ở nơi này nơi khác...
....
THÁNG HAI, 2012
Vân Võ Hoài Phương
******************

Không có nhận xét nào: