* Bài Hay Đọc Nhiều ( 2 )
“CÓ PHẢI DUYÊN NHAU THÌ THẮM LẠI ...”
Nhà Văn VÕ THỊ HẢOMai này không biết chúng ta có còn thấy được những người đàn bà thong thả nhai trầu? Mắt họ long lanh. Môi họ thắm đỏ và một mầu hồng nâu say say ửng trên đôi má. Ấy là khi trầu đã bén duyên cau. Và vôi, và vỏ, và chút thuốc lào gợn dưới vành môi. Làn môi trên của người đàn bà ăn trầu nhẹ cong lên một chút, như mọng hơn, như hờn dỗi, để làm lung linh thêm cái duyên nghĩa trầu cau.
Từ thời xa xưa, khi người Việt Nam chưa biết làm duyên bằng son phấn, thì cái duyên trầu cau đã làm đẹp cho bao cô gái, bao thiếu phụ và cả những bà già mắt đã mờ, chầm chậm nghiền miếng trầu cho nhuyễn, nghe tháng năm rân ran chạy từ chót lưỡi lên đôi má và trong phút chốc, tuổi trẻ như vãn hồi trong chút ửng hồng trên gương mặt già nua.
Những người đàn bà ăn trầu được bây giờ chỉ đếm trên đầu ngón tay trong làng trong phố. Nhưng tục ăn trầu bởi đã trở thành một nét văn hóa không phai nhòa trong tâm hồn người Việt nên vẫn tiếp nối trong các đám cưới, trong các món đồ lễ của các bà các cô dâng lên bàn thờ Tổ tiên, cầu Thần khấn Phật với lòng thành kính. Và theo thời đại của những người răng trắng, tục ăn trầu đã biến cách. Chỉ còn là những miếng trầu têm cánh phượng gói trong phong giấy hồng báo tin vui.. Chỉ còn là buồng cau nõn nường một vài trăm trái được tết giấy trang kim lấp lánh nằm xoãi dài trên mâm quả cưới mà chú rể đội đến nhà ba mẹ cô dâu xin con gái người ta. Một lá trầu quế xinh xinh điểm duyên dáng những dấu hương nhang, trên mặt lá trầu có phết chút vôi trắng, với một quả cau non đặt trên mâm đồ lễ dâng lên ông bà tổ tiên...
Người thời nay dẫu đa số chẳng ăn trầu song vẫn âm thầm nhớ, da diết nhớ cái duyên nghĩa trầu cau. Phải chăng đó là cái duyên của sự chuyển hóa, của sự biến điệu. Trầu, cau, vôi, vỏ... tất cả nếu đứng riêng rẽ thì mỗi thứ chỉ là lá, là quả, là đá, là cây.. Nhưng khi chúng hợp lại, hòa quyện, được ủ ấp trong môi miệng của con người, thì tất cả bỗng biến đổi. Trở nên đằm thắm, trở nên rực rỡ. Và trầu cau đã là nơi khởi đầu cho bao mối lương duyên.
Nhân ngày xuân, cảm cái hương trời xuân lành lạnh, nhìn chóng mặt cả những dòng người xe chen nhau mải miết vì sinh kế, mà nôn nao nhớ mong một điều xa xôi.. Có lẽ là nhớ mẹ tôi xưa nay đã yên nghỉ ở đất vĩnh hằng và thuở sinh thời mẹ vẫn ăn trầu; là nhớ những cụ bà bán trầu cau thuộc hàng lâu năm nhất ở đất Hà Thành. Vài ba người trong họ đến nay còn sống, còn minh mẫn, vẫn tiếp tục ngồi bên sạp trầu cau...
Những hàng trầu cau bây giờ vì lãi không đủ trang trải thuế chợ, nên đã giạt ra mé ngoài cuối chợ, ngồi xập xệ dưới những mái hiên. Chủ yếu là khách đến mua cau cưới nhưng cũng không còn cái thời những tay đàn ông, đàn bà hăm hở lựa tìm trầu quế trầu cay và các cô gái trao cho người yêu chiếc khăn trầu tình tứ. Đám cưới bây giờ các chú rể chỉ mua một, hai trăm quả cau. Rồi cũng chẳng mấy ai ăn. Trầu cau héo dần trên đĩa, thỉnh thoảng mới được vài cụ già cỡ bảy mươi nhón lấy một miếng. Nhưng dù thế nào, các cụ cùng với gian hàng trầu cau vẫn ngồi đấy, như một người trung thành níu giữ cái duyên của một thời không thể lãng quên.
Còn ít ỏi lắm những cụ bà còn gắn với duyên nghiệp trầu cau. Rồi họ cũng sẽ lần lượt đi theo tiếng gọi của đất. Song chút hương xưa, chút duyên thầm của người Việt Nam không dễ gì mai một.
Nhà Văn VÕ THỊ HẢOMai này không biết chúng ta có còn thấy được những người đàn bà thong thả nhai trầu? Mắt họ long lanh. Môi họ thắm đỏ và một mầu hồng nâu say say ửng trên đôi má. Ấy là khi trầu đã bén duyên cau. Và vôi, và vỏ, và chút thuốc lào gợn dưới vành môi. Làn môi trên của người đàn bà ăn trầu nhẹ cong lên một chút, như mọng hơn, như hờn dỗi, để làm lung linh thêm cái duyên nghĩa trầu cau.
Từ thời xa xưa, khi người Việt Nam chưa biết làm duyên bằng son phấn, thì cái duyên trầu cau đã làm đẹp cho bao cô gái, bao thiếu phụ và cả những bà già mắt đã mờ, chầm chậm nghiền miếng trầu cho nhuyễn, nghe tháng năm rân ran chạy từ chót lưỡi lên đôi má và trong phút chốc, tuổi trẻ như vãn hồi trong chút ửng hồng trên gương mặt già nua.
Những người đàn bà ăn trầu được bây giờ chỉ đếm trên đầu ngón tay trong làng trong phố. Nhưng tục ăn trầu bởi đã trở thành một nét văn hóa không phai nhòa trong tâm hồn người Việt nên vẫn tiếp nối trong các đám cưới, trong các món đồ lễ của các bà các cô dâng lên bàn thờ Tổ tiên, cầu Thần khấn Phật với lòng thành kính. Và theo thời đại của những người răng trắng, tục ăn trầu đã biến cách. Chỉ còn là những miếng trầu têm cánh phượng gói trong phong giấy hồng báo tin vui.. Chỉ còn là buồng cau nõn nường một vài trăm trái được tết giấy trang kim lấp lánh nằm xoãi dài trên mâm quả cưới mà chú rể đội đến nhà ba mẹ cô dâu xin con gái người ta. Một lá trầu quế xinh xinh điểm duyên dáng những dấu hương nhang, trên mặt lá trầu có phết chút vôi trắng, với một quả cau non đặt trên mâm đồ lễ dâng lên ông bà tổ tiên...
Người thời nay dẫu đa số chẳng ăn trầu song vẫn âm thầm nhớ, da diết nhớ cái duyên nghĩa trầu cau. Phải chăng đó là cái duyên của sự chuyển hóa, của sự biến điệu. Trầu, cau, vôi, vỏ... tất cả nếu đứng riêng rẽ thì mỗi thứ chỉ là lá, là quả, là đá, là cây.. Nhưng khi chúng hợp lại, hòa quyện, được ủ ấp trong môi miệng của con người, thì tất cả bỗng biến đổi. Trở nên đằm thắm, trở nên rực rỡ. Và trầu cau đã là nơi khởi đầu cho bao mối lương duyên.
Nhân ngày xuân, cảm cái hương trời xuân lành lạnh, nhìn chóng mặt cả những dòng người xe chen nhau mải miết vì sinh kế, mà nôn nao nhớ mong một điều xa xôi.. Có lẽ là nhớ mẹ tôi xưa nay đã yên nghỉ ở đất vĩnh hằng và thuở sinh thời mẹ vẫn ăn trầu; là nhớ những cụ bà bán trầu cau thuộc hàng lâu năm nhất ở đất Hà Thành. Vài ba người trong họ đến nay còn sống, còn minh mẫn, vẫn tiếp tục ngồi bên sạp trầu cau...
Những hàng trầu cau bây giờ vì lãi không đủ trang trải thuế chợ, nên đã giạt ra mé ngoài cuối chợ, ngồi xập xệ dưới những mái hiên. Chủ yếu là khách đến mua cau cưới nhưng cũng không còn cái thời những tay đàn ông, đàn bà hăm hở lựa tìm trầu quế trầu cay và các cô gái trao cho người yêu chiếc khăn trầu tình tứ. Đám cưới bây giờ các chú rể chỉ mua một, hai trăm quả cau. Rồi cũng chẳng mấy ai ăn. Trầu cau héo dần trên đĩa, thỉnh thoảng mới được vài cụ già cỡ bảy mươi nhón lấy một miếng. Nhưng dù thế nào, các cụ cùng với gian hàng trầu cau vẫn ngồi đấy, như một người trung thành níu giữ cái duyên của một thời không thể lãng quên.
Còn ít ỏi lắm những cụ bà còn gắn với duyên nghiệp trầu cau. Rồi họ cũng sẽ lần lượt đi theo tiếng gọi của đất. Song chút hương xưa, chút duyên thầm của người Việt Nam không dễ gì mai một.
Nhà Văn VÕ THỊ HẢO(Nguồn: PHỤ NỮ, số báo Mùa Xuân 1999 )
****************************************
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét