MỘT KHUNG TRỜI ƯA THÍCH SỐNG VUI (7)
*
“Trang Văn Học
Mùa Thu Thụy Điển
Thu! Thu về trên xứ Thụy! Tôi thầm nghĩ trong lòng khi những cơn mưa cuối hè lai rai mang theo hơi lạnh heo may. Mải miết làm việc gì đó hoặc tập chú đọc mấy tập sách báo dù chỉ một vài ngày, thế thời đã khác. Sắc xanh tươi của hè trong sáng, nắng rực rỡ thệt lý tưởng của năm nay đã phai tàn, màu buồn man mác của mùa thu như tấm màn vĩ đại vô hình, trải dài ngút ngàn, rộng vô biên, những chiếc lá bay tung trong gió cuốn, lác đác rơi bên lề đường, bãi cỏ. Thu hữu hình choàng lên toàn châu Âu và Thụy Điển, vẻ cô liêu huy hoàng, dáng sầu bi lộng lẫy muôn thuở của nó. Màu vàng mang sắc diện Thu Châu Âu có ngoại hình rực rỡ, hấp dẫn đến độ khó tả cho hết cảm xúc vơi đầy, vừa muốn đón nhận xen kẽ ngờ vực, vừa muốn ôm lấy mà hôn.. cũng như muốn cách ly ngay sau đó trong lòng người phương Đông như tôi.
Giữa không gian mơ hồ của hương thu xứ Thụy, tôi không thể không nhớ đến bài thơ Việt đầy cảm khái của Lưu Trọng Lư, một ca khúc dễ thương dễ nhớ, dấu ấn những kỷ niệm quá khứ đời mình, đời bạn, đời non sông... âm hưởng bài thi ca đó phục kích bí ẩn trong tâm thức, đường gân thớ thịt, vào bất cứ lúc nào thích hợp cũng trỗi dậy ngâm nga lên: “Em không nghe mùa thu... lá thu rơi...”. Khi trong lòng đã âm vang lời thân thương đó, chính tôi- thân phận lưu đài, cũng bị lôi cuốn bất ngờ theo cuộc hành trình tưởng tượng về quê hương, những kỷ niệm giận hờn, những thương mong nối đuôi nhau hiển hiện, dù trong vài khoảng khắc im lặng giữa mùa thu trên đất lạ quê người.
Châu Âu, cũng như Thụy Điển có những màu mè độc đáo bên cạnh bộ y phục gia truyền của mùa thu. Có loại thảo mộc đổi sang màu mận tím mỗi lần thu đến. Những chiếc lá khác đón thu bằng màu nâu non mơ hồ. Vài thực vật lạ lùng, lá trổ màu cà phê sữa hoặc rực hồng mỗi độ thu về. Độc đáo hơn nữa có loại cây chồi ra những hạt nhỏ tròn, đỏ chói, dường như để tạm biệt nhưng cũng để khuyến lệ lòng ai hay lưu luyến buồn bã vào buổi tàn thu...
Nhìn vào hàng cây quen thuộc trong công viên, tôi nhận ra dáng hình chiếc lá vàng rực, những chiếc lá mẫu mực thường được quảng bá như là biểu tượng của mùa thu châu Âu cũng như thu Thụy Điển. Lớp lá trên đỉnh ngọn cây ấy, mang màu vàng hanh, sắc nóng như lửa cháy, như đôi cánh những con cò lửa ở Việt Nam. Sinh khí của chùm lá đầu cành, trên cao này có vẻ khô khan, tuổi tác xế chiều, mong manh, khó qua nổi cơn mưa gió phũ phàng sắp đến.
Chùm nhánh giữa cây chứa những chiếc lá mang đầy đủ tinh tuý điển dáng mùa thu mệnh danh ôn đới Tây Phương. Những ngày trong sáng, nền trời bao la xanh ngắt, nắng ấm trải giải lụa đào xuống thế gian, ánh sáng vừa mang vẻ du dương thân tình lẫn trong huỳnh hoàng lấp lánh một huyền bí thiên nhiên. Khi đó những lá ở độ cao lưng chừng của cây sẽ triển lãm tất cả tinh hoa của phong thu Thụy Điển, óng ánh vàng, tươi roi rói, lấp lánh như những tiết họa sơn son thiếp vàng trên áo bào hoàng đê, rực sáng như vòng vàng nữ trang. Màu vàng quý tộc hai chiều này, vừa khêu gợi tâm tư cho người đa cảm vừa đe nẹt kẻ hay ngạo mạn không biết tôn trọng thiên nhiên. Màu gợi ý gợi tình đó, ta thấy được qua những bức tranh thu vàng của nhiều danh họa cổ điển như Van Gogh, Levitan... Vẻ đẹp quyến rũ của mùa thu thường thấy trên thơ văn nhân loại cũng phô bày trên những chiếc lá trung dung này. Tôi gật đầu hiểu ra, vì sao chúng được châu Âu cũng như quốc gia Thụy Điển này coi là biểu tượng khí hậu cho mùa giả biệt hè, đón đông sang, chúng trở thành đặc trưng, người mẫu cho mọi trang trí mùa thu Tây phương.
Những chiếc lá định cư ở cuối cành, cuối thân cây thì khang khác, mang màu vàng phơn phớt xanh tuy ngây thơ nhưng hứa hẹn một tương lai không rõ ràng. Màu thiên thanh xanh vàng, vàng xanh lẫn lộn. Hè vẫn còn vấn vương cố năn nỉ, níu kéo hòng được sống chung với thu trên chiếc lá này dù chỉ là vài ngày; thu vàng vừa hòa giải vừa tìm cách khôn ngoan lấn lướt hè xanh với biểu lộ bên ngoài vẫn cố tỏ duyên lành canh ngọt. Mảng màu xanh lam trên chiếc lá này vừa diêm dúa khêu gợi dễ ghét, vừa gợi mở hấp dẫn huyền hoặc gì đó, nhưng chưa kịp nghĩ ra, chúng vội khép lại, không muốn tiếp cận với mình nữa. [“Đoạn này có vẻ hơi khó hiểu, Anh Đỗ Nguyên Ly ạ ?!”] Tôi cảm giác trong tâm rằng những chiếc lá này trong hợp đã có tan, gần gụi nhau lúc này đây để rồi chia ly mai sau nhưng không thể liệu định trong tan có hợp lại hay không? Vào lúc những chiếc lá cuối cùng này mang được sắc đẹp truyên đời hãnh diện của nàng thu thì bạn hữu láng giềng lớp trên, bên cạnh, đã cỗi cằn héo hắt... “.
TÁC GIẢ: ĐỖ NGUYÊN LY
(Trích Trang Văn Học: MÙA THU THỤY ĐIỂN /
Tạp chí TỰ DO / FRIHETEN, số 12, Mùa Thu 97/ HÖST 97 ).
* *
Gần một tháng vội mải với vài việc riêng nên tôi chẳng còn lúc nào rảnh nhiều để ngồi bên bàn viết tiếp như khi trước dự tính. Một trong những bận rộn của tháng vừa qua là tổng kết và đặt để vài tập to tập nhỏ báo chí cũ vào một góc phòng trong nhà. Khi chuyển qua chuyển lại các tập tạp chí từ nhiều năm về trước, tình cờ tôi nhìn thấy dòng chữ Mùa Thu 97 in trên trang bià của tạp chí TỰ DO / FRIHETEN, ấn bản mùa thu 1997. Giữa lúc nghỉ ngơi vài phút, tôi xem qua vài trang trong tạp chí và đọc lại bài viết Mùa Thu Thụy Điển của tác giả Đỗ Nguyên Ly.
Vẫn biết rằng Thu đến rồi Thu lại ra đi, nhưng mỗi khi mùa thu đến là lại một lần trong tâm cảm của nhiều người thường có những tâm tư vấn vương phảng phất, một chút buồn, một vẻ hiu quạnh trước cảnh đổi thay của đất trời, cây lá. Đọc đoạn mở Mùa Thu Thụy Điển của Đỗ Nguyên Ly, bạn gần xa chắc hẳn có cảm tưởng như đương sống nơi xứ Thụy. Qua đoạn đầu loáng thoáng với nhiều màu sắc tuyệt vời, Đỗ Nguyên Ly còn có tài khêu gợi những ý tình khiến người đọc ưa thích. Ai có dịp gặp Đỗ Nguyên Ly, thường biết Anh rất yêu thích nghệ thuật, nhất là nghệ thuật tạo hình và hội họa. Chính bởi có những am hiểu về tranh, tượng nên Mùa Thu Thụy Điển của Đỗ Nguyên Ly có nhiều nét vẻ như trong một bức tranh về mùa thu với nhiều gam màu như tác giả từng chiêm ngưỡng. (Tiếc một chút là Anh có vài chữ hơi lạ, hình như kiêng tên hoặc có thể kỵ-huý tên người nào chăng?).
Tôi có may mắn vài dịp gặp gỡ thân tình với tác giả Đỗ Nguyên Ly. Anh hơn tuổi tôi có lẽ trên một giáp, nhưng những lời tâm tình của anh với tôi gần gũi như hai anh em trong một nhà; những chia sẻ của anh rất bổ ích y hệt đoạn văn thượng dẫn, bạn gần xa đã đọc trên. Đỗ Nguyên Ly có chiếc đèn cây (đèn có chân đứng) nhiều màu rất đẹp gồm nhiều đoạn cuối của những cây nến thắp nối lên nhau. Anh kể tôi nghe, cây đèn này là vật lưu niệm quí nhất đời anh trong quãng ngày mới tỵ nạn, và hồi mới đến xứ lạnh này, cây đèn chỉ cao bằng chiều cao một cuốn truyện. Ngày tôi đến thăm anh lần đầu thì cây đèn, qua nhiều lần thắp thêm nến đã cao hơn nửa mét, những giòng nến nhiều màu xanh, đỏ, trắng, tím, vàng... từ nơi ngọn chảy xuống đã che kín chân đèn. Nhiều giòng nến màu của cây đèn trông rất đẹp và làm người xem thích thú. Tôi chợt nhớ, có lần nghe ai đó nói, có loại nến khi thắp lên xua được muỗi, chẳng rõ anh có dùng đến loại nến này?
Nhìn qua dáng vẻ nhiều màu của cây đèn, tôi nghĩ, có thể anh thường tự hào với khách đến thăm nhà. Anh đặt “bảo bối”/ “thần hộ mệnh” bằng nến nhiều màu [chắc hẳn thế !] của anh trên chiếc khay tròn trên bàn cùng bên khay để chiếc ấm pha trà và ly, tách. Vài dịp đến thăm anh, nhiều lúc tôi ngồi trầm tư mặc tưởng nhìn ngắm mãi cây đèn gần như có một không hai này. Chẳng hiểu sao lúc đó, anh có vẻ rất vui thích, bước tới bước lui trong phòng khách với vẻ trịnh trọng như một triết gia...
Một hôm trong dịp gặp lại, tôi xin phép được hỏi đến một bí mật của anh với chiếc đèn cây, rằng vào những ngày nào, “ngọn hải đăng” của anh được thắp sáng.
Với ánh mắt nhìn ấm áp và bằng lời nói ít nhiều cảm kích, Đỗ Nguyên Ly nói:
-Tôi chỉ thắp sáng ngọn đèn của tôi vào những ngày tôi cảm thấy trong tâm thức của riêng tôi có đôi điều cần phải ngẫm nghĩ; hoặc một ngày kỷ niệm trong đời đúng ngày tôi đến nơi xa xôi này và cũng có thể vào ngày cuối cùng của năm cũ sắp qua.
Anh bước đến gần nơi bàn đặt cây đèn và ngồi xuống bên tôi:
-Những đêm đông rét lạnh, gió và tuyết bay rộn ngoài trời, nhớ lại cảnh đời tỵ nạn và nhớ đến còn nhiều mảnh đời tỵ nạn nay sống ở nơi này nơi kia. Đêm hôm đó, tôi tắt hết đèn điện trong nhà và thắp sáng ngọn nến này. Ngồi bên ánh sáng cây đèn, tôi thầm nhớ tới những lời cầu nguyện...
-Hôm nay, mong anh vui lòng thắp sáng ngọn đèn này để tôi có dịp nhìn thấy một lần ánh sáng cây đèn quí hiếm của anh.
Đỗ Nguyên Ly nhìn tôi với cảm xúc ít thấy nơi anh. Anh lặng lẽ thắp lên ánh sáng của ngọn nến đặt trên chiếc bàn.
Đêm hôm đó, hai chúng tôi ngồi trầm ngâm bên ánh sáng của ngọn nến, nghĩ về những ngày đã qua và nguyện cầu những tốt lành sẽ đến...
Vân Võ Hoài Phương
**********************
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét