Bàn Thêm Về TRUYỆN NGẮN (10)
Khi nói đến truyện ngắn, có người đã nhận xét, đây là "một thể loại hẩm hiu", tuy rằng "có thể hàm chứa sự tinh tế và cường độ mãnh liệt của cảm xúc, chuyên chở sức nặng của tiểu thuyết nhưng trong một không gian quá hạn hẹp..." Sau lời nhận xét vừa khích lệ vừa than vãn trên, Kenned Al vẫn cho rằng "truyện ngắn đóng một vai trò thiết yếu trong đời sống." (1)
Một không gian quá hạn hẹp, chừng ấy thôi cũng khiến người ta nghĩ tới một khoảnh vườn nhỏ, ở nơi ấy, tác giả viết truyện ngắn "xoay xở trên một mảnh đất chật hẹp". Thế nhưng, khi viết xong được một truyện ngắn hay, thì nhà văn đã vượt qua được thử thách, "một thử thách kinh khủng với nhà văn nhưng lại là món quà tuyệt diệu dành cho độc giả." (2)
Với ai am hiểu các thể loại văn chương, nếu dùng hình ảnh thí dụ, so sánh thì - truyện ngắn so với tiểu thuyết - chỉ là mảnh vườn nhỏ so với một cánh rừng. Nhưng, 'mảnh vườn nhỏ' này lại "đóng một vai trò thiết yếu trong đời sống."
Người ta thường vinh danh các tác phẩm văn chương có giá trị, đặc sắc, thể hiện lòng nhân ái và một điều không thể thiếu là các tác phẩm ấy phải gần gũi đời thường. Câu nói "văn học phản ảnh đời sống" nhiều người vẫn biết là một nhận định có tính lâu bền, nói cách khác thì trong văn chương có hình ảnh linh động của đời sống, và đời sống là nguồn sống của văn chương. Nhưng muốn tác phẩm văn học có hồn vía gần gụi đời thường, và có cốt cách sinh động của cuộc sống, người viết cần diễn tả, phô diễn và mô tả thế nào đây? Theo tôi dẫu cho khuynh hướng sáng tác hoặc cảm thụ thẩm mỹ của các nhà văn, nhà thơ - nhiều khi có sự khác nhau - nhưng, việc trước hết và cần nhất với các 'nhà' vẫn là việc cần chịu khó quan sát, để tái hiện lại cảnh đời và để diễn tả sâu sắc tình người với nhiều tình huống mô tả trong tác phẩm. Đây có thể là một trong những bí quyết làm nên tuyệt phẩm, hay nói cách khác thì khi một tác giả mà nghèo nàn khiếu quan sát và thiếu tình người ( vô cảm, thờ ơ ), tác phẩm sẽ sớm muộn rơi vào quên lãng vì nhạt nhẽo. Đúng như nhà văn Kim Lân từng nói: "Văn chương mà nhạt như nước ốc nó chẳng ra sao." Nhà văn Kim Lân, "xuất hiện trên văn đàn, khi mới ngoài hai mươi tuổi"- và ông đã có nhiều tác phẩm hay, phong phú, súc tích - Ông nổi tiếng là "một cây bút truyện ngắn vững vàng." Ngày nay ai có dịp may đọc đến các truyện ngắn của ông như Vợ Nhặt, Nên Vợ Nên Chồng, chắc hẳn sẽ cảm thấy vui thích với nhiều thú vui nơi xa xôi đô thị và cũng có dịp hiểu biết thêm những cảnh sống, tình người về một thời tản cư loạn lạc, tuy rằng nhiều khổ sở nhưng người ta vẫn còn giữ được niềm tin và tâm hồn trong sáng. ( Theo vài bài viết về văn học sử trên Net )
*
Trước tình trạng văn chương "nhạt", "lạt lẽo" và nhìn chung tình hình 'xuống cấp' gần chạm đáy vực thẳm, cơ hồ khó có thể tìm ra đường trèo lên khỏi hố để lên đến đỉnh cao. Xa gần ca cẩm, có người cho rằng văn chương hiện thời ì ạch là do xã hội nhiều 'tiêu cực'. Và, thực trạng văn học bế tắc, không có tác phẩm nào ra hồn là bởi số đông viết lách thờ ơ và vô cảm trước thời cuộc; có kẻ lại nghĩ rằng giới cầm bút thời nay kém kỹ năng, viết cốt sao để có vài tác phẩm vô thưởng vô phạt, xuất bản và trình làng là xong. Dường như nhiều người đã quên một nhận định của André Maurois, một danh sĩ Âu châu ( nghĩ ra thật đúng với tình trạng văn chương nhạt nhẽo nhiều người đã biết ) : "Nhưng nói cho đúng thì những thành công giả tạo đó không bao giờ bền. Khi thời gian trôi qua, hoặc ít chục năm, hoặc vài thế kỷ thì có một sự phân định cao thấp công bình hơn. Một thế hệ đó có thể lầm; mười thế hệ không khi nào lầm cả." (3)
Ông còn khẳng định thêm một điều rất cần thiết và gần như là một bí quyết để các tác giả tìm ra bút pháp của riêng mình : "Hầu hết ai cũng có một khí chất ; điều khó khăn là làm sao đừng chôn vùi nó hoặc dưới lớp xam xám của sáo ngữ, hoặc dưới sự loè loẹt của hình ảnh. Tác giả càng theo sát sự việc, càng dùng những tiếng cụ thể thì càng dễ có một bút pháp." (4)
Để hiểu thêm về bút pháp một nhà văn, người viết mạn phép trích dẫn đoạn kết một đoản thiên tiểu thuyết, tựa đề Cái Bước Thứ Hai của nhà văn Selma Lagerlöf, do Hoàng Thiếu Sơn dịch, chọn in trong Tuyển Tập Truyện Ngắn Các Tác Giả Đoạt Giải Nobel, tập II, Nhà Xb Văn Học, 1998.
Nhà văn nữ Selma Lagerlöf ( Thụy Điển ) là phụ nữ đầu tiên đoạt giải văn chương ( Nobel 1909 ) trong lịch sử giải văn chương Nobel - ( SELMA LAGERLÖF ÄR DEN första kvinnan i de litterära nobelprisens historia ). ( Theo De Litterära Nobelprisen, 1901-1983, tr. 65; tác giả: Helmer Lång )
Đọc qua nơi trích dẫn ngắn đoạn kết tác phẩm, người đọc tinh ý sẽ nhận ra cách quan sát "theo sát sự việc", và nghệ thuật viết truyện ngắn cùng bút pháp xuất sắc của nhà văn nữ Selma Lagerlöf với những tình huống rất đời thường, nhiều ý vị ; tuy rằng có vài chi tiết hài hước nhẹ nhàng, mang tính kịch, nhưng đượm chất hiện đại.
CÁI BƯỚC THỨ HAI
*
Selma Lagerlöf
( Nobel 1909 )
*
......
Một chiều chúa nhật Halphoor ngồi trước tam cấp nhìn khách qua lại chơi, thì thấy nhiều xe đẹp đi tất cả về phía Ingmarxgard. Chiếc thứ nhất do một trong những tay đốc công của nhà máy Bergxana cầm cương, chiếc khác do con trai ông chủ quán ở Karmxund, và Perxôn điền chủ cự phú ở xã bên cạnh, ngồi khểnh trong chiếc thứ ba. Đó là nông gia giàu nhất cả miền tây tỉnh Đalarmê, một người làm ăn rất giỏi, có tiếng tăm lớn, đã có tuổi, có vợ rồi vợ chết, rồi lấy vợ kế và lại goá vợ nữa.
Nhận ra Perxôn thì Halphoor không cầm lòng được nữa. Lát sau là anh̀ đã ở trên đường cái, rồi phút chốc đã sang bên kia cầu, phía cái trại cổ. "Mình chỉ muốn biết các chiếc xe kia đi đâu thôi", anh tự nhủ, như để tự xin lỗi mình. Càng đi theo lốt xe của họ, anh càng sốt ruột. Nhớ đến lời căn dặn của mẹ Xtina, anh ta lẩm bẩm một mình: "Mình làm việc này vô nghĩa lắm. Nhưng mình sẽ đi đến hàng rào sắt thôi; mình tò mò muốn xem có cái gì diễn ra ở đấy thôi".
Perxôn và hai người đàn ông kia đã ngồi yên vị trong gian phòng của trại Ingmarxgard và uống cà phê. Ingmar Ingmarxôn vẫn trọ tại nhà ông Xturm, nhưng chúa nhật nào cũng về trại, sang ngồi cạnh bàn ở chỗ dành cho chủ nhà. Karin lấy cớ phải làm việc nhà vì tất cả người ở gái phải đi nghe thầy giáo giảng đạo.
( Vài dòng thuật vắn gọn : Mùa hè trước vài năm , Halphoor có đến hỏi Karin làm vợ... Sau vài ngần ngại, cuối cùng bên nhà gái cũng quyết định gả Karin cho Halphoor. Ngày cưới đã định và trong tuần lễ mà ông mục sư công bố tin thành hôn cho xã biết thì Karin và Halphoor đi Phalun mua nhẫn cưới và cuốn Thánh thi. Đi mất ba ngày, đến khi trở về thì Karin tuyên bố không thể cưới Halphoor được. Cô ta đã thấy anh ngà ngà say một đêm ở Phalun và quá lo là anh ta sẽ giống bố anh ta / "vì bố anh ta quá thích uống rượu"... Hồi ấy, bố Karin, không muốn ép buộc con gái, liền báo cho Halphoor là thôi...
Và từ mùa thu... Karin đã là vợ của E. Elôpherxôn...
Bố của E.Elôpherxôn, hung dữ và suốt đời cực kỳ nghiêm khắc với con trai ...
lớn lên, người ta không để cho anh được chút thú vui nào: lúc nào cũng làm việc...
Thiên hạ nơi nơi đều nói là nhà Ingmarxôn (nhà Karin) được chàng rể hợp sở thích của họ vì ở đời anh ta chỉ biết có làm việc mà thôi.
Nhưng khi bố Karin vừa mất là chàng rể gương mẫu bắt đầu uống rượu và sống thả cửa...
Chỉ vài tháng là đủ để làm cho anh ta thành một tay nghiện ngập tàng phê...
Sau đó, trong một lần gặp Halphoor và để đùa và trêu Halphoor, Elôpherxôn sơ ý, trượt và ngã...
Elôpherxôn gãy lưng,... chẳng còn chút hơi sức nào, chẳng nhúc nhích được nữa...
Karin sống trong cảnh khắc khoải qua hơn hai mùa đông...
Vào khoảng mùa xuân, Halphoor đến giúp cô gánh đỡ gánh nặng... Thế là Êliaax ( tức Elôpherxôn ) đến ở nhà Halphoor và nằm suốt cả mùa hè ở phía sau cửa hàng... và sang thu thì chết.
Đoạn văn sau đây, là khung cảnh các người đi hỏi vợ đến nhà Karin. Tiếp theo đoạn văn trên. )
Trong gian phòng lớn ấy người ta buồn đến chết đi được. Các người đi hỏi vợ lặng lẽ uống cà phê: họ chỉ quen biết nhau một tí thôi, và người nào cũng chờ một cơ hội để lẩn xuống bếp nói chuyện với bà chủ nhà.
Cửa mở ra và một người khách nữa vào. Ingmar ( em Karin ) bước ra mấy bước và đưa khách ngồi vào bàn.
Cậu ta nói với Perxôn: - Anh Timx Halphoor Halphoorxôn đấy ạ.
Perxôn chào mà không đứng lên, chỉ đưa bàn tay khẽ vẩy một cái và nói giọng hơi đùa cợt:
"Rất sung sướng được giới thiệu với một người nổi tiếng như thế."
Ingmar đẩy một cái ghế ra mời Halphoor ngồi, tiếng đẩy mạnh đến nỗi anh ta thấy miễn phải đáp lại Perxôn.
Halphoor đến đã tháo khoán cho mấy người đi hỏi vợ. Họ liền thành ra đa ngôn, khoe khoang, khen nhau hết lời, ủng hộ nhau, kích nhau lên, như thể đã giao hẹn với nhau để đẩy người mới đến ra khỏi cuộc đấu.
Tay đốc công khởi sự nói với Perxôn: - Hôm nay ông có con ngựa tuyệt trần.
Perxôn vớ lấy thời cơ, vội vàng khen tay đốc công về cái con gấu nào đấy y giết được năm trước. Rồi cả hai quay sang anh chủ quán trẻ tuổi khen lấy khen để cái nhà mà bố anh ta mới xây. Sau cùng lại đến lượt tay đốc công và anh chủ quán cùng ca tụng sự giàu có của Perxôn.
Tài hùng biện của họ không chút cạn, và mỗi chữ đều cố cho Halphoor nghe rằng nỗi hèn mọn của anh không cho phép anh đọ sức với họ đâu. Halphoor liền ý thức được thân phận nhỏ mọn của mình và tiếc cay tiếc đắng cái việc mình cũng đến đây ướm lời.
Karin vào rót cà phê lượt thứ hai. Trông thấy Halphoor thoạt tiên cô cảm thấy mừng, nhưng tức thì nghĩ rằng Êliax vừa mới chết thì việc anh ta đến đây sẽ bị thiên hạ giải thích sai rằng anh ta mà vội vàng thế thì rõ là anh đã chăm sóc Êliax không ra gì để kế thừa Êliax cho sớm vậy. Karin muốn rằng anh hẵng chờ đấy hai năm thì hơn. Thời gian như thế mới phải lẽ, và thiên hạ sẽ hiểu rằng anh chẳng hề muốn cái gì không tốt cho kẻ quá cố cả. Cô ta nghĩ: "Tại sao anh lại vội vàng như thế? Anh ta lại không biết rằng mình sẽ không bao giờ lấy ai ngoài anh ta hay sao?"
Karin vào thì trong phòng lại im lặng và tất cả mọi người đều để mắt nhìn xem Halphoor và cô sẽ chào nhau như thế nào. Họ chỉ hơi đụng vào đầu mút ngón tay nhau thôi. Thế là tay điền chủ to béo, hội thẩm nhân dân, buột miệng huýt một tiếng sáo nhẹ nhưng thật cao, khiến tay đốc công phải bật ra cười to.
Halphoor liền quay lại phía y và nói giọng rất ôn tồn:
- Ông đốc công cười cái gì vậy?
Tay này không tìm ngay được một tiếng để trả lời và không muốn buột mồm nói ra một lời làm tổn thương người khác trước mặt Karin.
Anh chủ quán liền nói: - Ông ta nghĩ đến con chó săn lùng đuổi con thỏ ra rồi để cho các thợ săn hạ thủ.
Khuôn mặt Karin đỏ dừ, nhưng cô cứ rót cà phê.
Cô xin lỗi: - Perxôn và các ông, xin vui lòng dùng cà phê, vì chúng tôi không thết rượu ai ở Ingmarxgard nữa.
- Ở nhà tôi cũng thế; ông trưởng đoàn hội thẩm đáp lại.
Tay đốc công và nhất là anh chủ quán trẻ tuổi liền làm thinh, hiểu rằng Perxôn vừa giành được một lợi thế đáng giá. Ông trưởng đoàn hội thẩm liền nói dông dài để lấy lòng Karin, về sự tiết độ và về những cái nguy hại của rượu, và Karin lắng nghe, vui lòng gặp được những ý nghĩ của chính mình ở miệng một con người nói năng có lý lẽ đến thế.
Vừa nói, Perxôn vừa đưa mắt nhìn Haphoor và thấy anh ngồi vẻ mặt u ám và kín như bưng, tách cà phê để nguyên không đụng đến. Ông ta nghĩ: "Đối với anh ta, dù sao thì cũng đau thật, nếu thật đúng như người ta nói là anh ta đã giúp ít nhiều cho Êliax sớm lên đường. Thật tình mà nói thì khử giùm cho Karin một thằng chồng khốn nạn đến thế chính là một việc làm tốt." Và cảm thấy rằng mình đã thắng cuộc được một nửa rồi, ông ta đâm ra tử tế hơn đối với Halphoor. Nâng tách lên ông ta nói:
- Chúc mừng Halphoor! Anh trông nom săn sóc kẻ khốn khổ mà Karin đã lấy phải, là đã giúp cô ta một việc rất lớn đó.
Halphoor nhìn ông ta không rời mắt, tự hỏi là mình phải hiểu những lời nói ấy như thế nào.
Tay đốc công liền bật cười, và nói:
- Vâng, giúp một việc lớn, giúp một việc rất lớn!
Rồi anh chủ quán mỉm cười nhắc lại:
- Đúng, đúng, giúp một việc rất lớn.
Họ chưa hết cười thì Karin đã lướt ra khỏi phòng, như một cái bóng. Cô đứng lại cạnh ngưỡng cửa nhà bếp, lắng tai nghe tất cả những gì người ta nói, buồn rầu, tuyệt vọng vì Halphoor đã trở lại quá sớm. Vội vàng như thế rồi sẽ làm cho công việc họ lấy nhau không thể thành được nữa, vì những kẻ thối mồm đã hoạt động rồi đấy.
Bàn tay co quắp lại trước ngực, cô nghĩ "Không hiểu rồi làm sao mình có thể chịu đựng được cái cảnh phải mất, không lấy được anh ta."
Giữa cảnh yên lặng bỗng nghe có tiếng đẩy cái ghế; một người nào đấy đứng dậy.
Tiếng cậu Ingmar hỏi: - Anh Halphoor đã về rồi sao?
Halphoor trả lời: - Vâng, tôi không thể ở lại được nữa. Nhờ cậu cáo từ Karin hộ tôi.
- Nhưng anh Halphoor phải vào bếp mà tự mình chào lấy chứ.
- Không, giữa chúng tôi mọi việc đã xong cả rồi.
Tim Karin đập mạnh và những ý nghĩ của cô dồn dập đến. Halphoor giận cô. Ai mà phải ngạc nhiên về việc đấy nữa? Cô chỉ hơi dám chạm vào tay anh thôi và khi mà những người khác chế giễu anh độc ác thế, thì cô đã không bênh anh, lại chẳng nói gì, đã bỏ đi ra. Bây giờ thì anh nghĩ là cô không yêu anh nữa. Bây giờ thì anh đi mất. Anh sẽ không bao giờ đặt chân lại cái trại này nữa. Làm sao mà cô lại như thế, cô là người mà anh yêu đến thế. Bỗng nhiên câu nói của cha cô ngày xưa trở lại trong trí nhớ của cô: dòng họ Ingmarxôn không việc gì phải sống trong nỗi khiếp sợ loài người, mà chỉ đi theo những con đường của Chúa.
Karin liền mở cửa ra và đứng ngay trước mặt Halphoor, trước khi anh bước qua ngưỡng cửa.
Cô nói: - Anh đã về đấy à, Halphoor? Em nghĩ là anh ở lại đây ăn bữa tối.
Halphoor nhìn cô: cô đã thay đổi hoàn toàn, mặt đỏ lên như bừng cháy mà có cái gì đấy thật cảm động và dịu dàng mà anh chưa hề thấy ở cô bao giờ.
- Ấy, tôi đi về đây mà; tôi đi về và không trở lại nữa; anh ta nói, không hiểu là cô muốn gì anh ta.
- Không, hãy đến uống cà phê đã.
Cô nắm lấy tay đưa anh trở lại bàn, và mặt cô cứ lần lượt đỏ lên và tái đi, và mấy lần cô thấy thiếu can đảm, nhưng vẫn giữ vững được tinh thần, dù những lời chế giễu độc ác và thái độ khinh miệt đối với cô là nỗi đau khổ cay đắng nhất phải chịu đựng. Cô nghĩ: "Ít ra là anh ta sẽ thấy là mình chia sẻ với anh cái gánh nặng ghê gớm."
Karin nói: - Ông Perxôn và các ông ạ, Halphoor và tôi, chúng tôi chưa nói đến việc này, vì rằng tôi vừa mới goá chồng chưa bao lâu, nhưng mà tôi nghĩ rằng tốt hơn hết là xin mọi người nghe đây: - Tôi muốn được thành hôn với Halphoor hơn với bất kỳ ai hết.
Cô dừng lại vì giọng cứ run run, rồi nói tiếp:
- Ai muốn nói gì thì nói.
Và cô đứng sát vào Halphoor như để tìm lấy bên cạnh anh chốn trú ẩn chống lại mọi lời nói độc ác.
Những người đi hỏi vợ đều lặng thinh, ngạc nhiên nhất là thấy Karin suốt đời chưa bao giờ có vẻ thanh tân, có vẻ thiếu nữ như hôm nay.
Cuối cùng Halphoor mới nói được, giọng ngập ngừng: -Khi tôi nhận được chiếc đồng hồ của bố, tôi nghĩ là chẳng còn gì lớn lao hơn sẽ có thể đến với tôi nữa, nhưng mà việc cô vừa làm đã vượt xa tất cả mọi việc.
Còn Karin thì cứ khắc khoải chờ xem những người khác nói gì. Thế là Perxôn đứng lên, và con người hết sức tốt ấy trịnh trọng nói:
- Chúng tôi xin chúc mừng Karin và Halphoor, vì ai cũng biết là người mà Karin Ingmarxđotter đã chọn là người không chút tì vết và không thể chê trách được.
Hoàng Thiếu Sơn dịch
**********************
Vài tác phẩm và hình ảnh về Selma Lagerlöfs
*
*
*
*
*
**********************
( * ) Chú thích:
1, 2. Kenned AL là tác giả bài Truyện Ngắn - Một thể loại hẩm hiu
( H.T lược dịch ), đã đăng tải trên Net.
3, 4. André Maurois, Thư Ngỏ gởi Tuổi Đôi Mươi, tr. 132,
( Bản dịch của Nguyễn Hiến Lê ) .
*
CHÚC VUI !!
**********************
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét